Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt” - Kim LânNhà văn Kim Lân sinh năm 1920, tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, người làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân viết không nhiều, nhưng được coi là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam.Quảng cáo
Đề bài Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” - Kim Lân Lời giải chi tiết Nhà văn Kim Lân (sinh năm 1920), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, người làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân viết không nhiều, nhưng được coi là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội này cộng với một tấm lòng thiết tha hiếm có đã tạo nên những trang viết sâu sắc, cảm động nhất của ông. Con người có một đời văn hóa khá dài ấy (trên năm mươi năm) không hiểu kĩ tính thế nào mới trình làng vẻn vẹn có hai tập truyện ngắn: Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí (1962). Nhưng nghệ thuật không quen đo đếm ở số lượng. Chỉ một truyện như Vợ nhặt (rút từ tập Con chó xấu xí) – vốn được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân – cũng có thể là niềm mơ ước của nhiều người cầm bút. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, do đơn đặt hàng của báo Văn nghệ, Kim Lân mới viết lại. Riêng điều đó thôi đã thấy Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dཧung và 🦩chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Không phải ngẫu nhiên Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người xứ Việt về một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ. Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo. Chao ôi, toàn những chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh đúc ngày đói mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn… Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm, tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một bản cáo trạng trong Vợ nhặt , mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong bóng tối của hoàn cảnh Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của𓂃 tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động. Trong văn chương người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài không đạt đến một mức nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng thiết tha của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện. Tài dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả lời phỏng vấn, Kim Lân hào hứng giải thích:”nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là “nhặt” được vợ như tôi nói trong truyện”. Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa: “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người: trạng thái chông chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có, như không. Đây là niềm vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?… Cái thế đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim Lân mà nhiều người hay bỏ qua. Đó là câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự💞 đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Số phận con người trong văn học hiện thực đồng nghĩa với bế tắc. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn. Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng rễ trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.ufa999.cc
Quảng cáo
Group 2K8 ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí |