Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận - Ngữ Văn 12Mới đọc, có khi nhầm Tràng giang là một bài thơ thuần tuý tả cảnh thiên nhiên.Quảng cáo
Đề bài Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận - Ngữ Văn 12Lời giải chi tiết Mới đọc, có khi nhầm Tràng giang là một bài thơ thuần tuý tả cảnh thiên nhiên. Nhưng nghiền ngẫm cho kỹ mới thấy điều tác giả muốn nói đến trong bài thơ này tuyệt nhiên không phải là cái hữu hình, nhất thời, mà là cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đúng như Hoài Thanh đã khẳng định: Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người luân luân🃏 lắng nghe mình sống để ghi lại cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong. Cái thế giới bên trong, cái linh hồn của tạo vật trong bài Tràng giang là nỗi buồn xa vắng mênh mông. Dòng sông và con người, không gian bao la và tâm trạng cụ thể; đó là một tứ thơ cổ điển:Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song. Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên cũng nhắc lại tựa đề. Tràng giang chứ không phải trường giang.Tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác. Tràng giang còn gợi nên được hình ảnh một con sông dài và rộ♔ng, vừa là tràng giang, vừa là đại giang. Phải chăng, đấy là sông Hồng, bền bỉ muôn đời, đã từng chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử? Và suy cho cùng sức mạnh của hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khêu gợi, khêu gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang), và theo thời gian (điệp điệp). Ở khổ thơ đầu, cũng như toàn bộ bài Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm, luật như cách đối trong thơ cổ. Chẳng hạn Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, có thể coi là đối với Con thuyền xuôi mái nước song song; Nắng xuống, trời lên sâu chót vót, đối với: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Hoặc ở một cấp độ khác: bèo 𓄧dạt về đâu, hàng nối hàng; - Mênh mông không một chyến đ𒀰ò ngang lại cũng có thể đối với Không cầu gợi chút niềm thân mật – Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Nghệ thuật đối ý (và đối xứng) nói trên, một mặt làm cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, linh hoạt (tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ); mặt khác, vẫn phát huy đợc một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như: điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. Nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại. Trước hết hiện đại ở hình ảnh, ở thi liệu ở cảm xúc:Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi trong đó xuất hiện cái tầm thường nhỏ nhoi, vô nghĩa như củi một cành khô...thơ xưa chủ yếu là địa hạt dành riêng cho những tao nhân mặc khách, hầu như thiếu vắng cái hiện thực khô ráp của đời thường. Đến thời Thơ mới, nó xuất hiện, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong thơ (Hoài Thanh). Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định. Đến khổ thơ thứ hai, nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật:Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Theo Huy Cận, là đìu hiu ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: Non Kì quanh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Cặp từ láy lơ thơ và đìu hiu gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn...chợ chiều thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ sáng, chợ trưa. Đoàn Văn Cừ đã đặc tả thành công nét buồn này bằng những câu kết của bài thơ Chợ Tết quanh quán chợ. Trong Tràng giang, tiếng chợ chiều đã vãn từ một làng xa nào vẳng lại đã gợi một không khꦡí buồn vắꦑng, cô tịch: Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Đây là mấy câu thơ có giá trị tạo hình. Không gian được mở rộng, và đẩy cao thêm. Sâu gợi lên ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Chót vót gợi tả chiều cao vô tận. Càng rộng, càng cao, thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, với bến bờ lẻ loi xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ thấm vào không gian ba chiều. Con người trở nên bé bỏng, có phần rợn ngợp trước vũ trụ vĩnh hằng, rộng lớn, không khỏi thấy lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian. (Hoài Thanh). Ấn tượng nói trên lại được tô đậm thêm ở khổ thơ tiếp theo:Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa, Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhâ nhà. Thiên nhiên buồn, nhưng cũng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời, ánh dương phản chiếu trông lấp lánh như những núi bạc. Hình ảnh mây cao đùn núi bạc tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sồng nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim nhỏ bé, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều xa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ, trong một buổi chiều tà cũng để gợi lên một nỗi buồn xa vắng. (Chim hôm thoi thót về rừng - Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành. Truyện Kiều - Nguyền Du). Nhưng điều đá💖ng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập; đối lập giữa cánh chim bé nhỏ với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn? Cổ kính, trang nghiêm, Tràng giang còℱn là một bài thơ rất Việt Nam൲. Dòng sông sóng gợn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà... thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta. ufa999.cc
Quảng cáo
Tham Gia Group Dành Cho Lớp 11 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí |