Phân tích bài thơ Côn Sơn ca của Nguyễn TrãiHọc giả Đào Duy Anh xếp bài thơ “Côn Sơn ca” vào số 87 “Ức trai thi tập” (Sách Nguyễn Trãi toàn tập” nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1976). Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể ca gồm 36 câu, câu ngắn nhất 4 chữ, câu dài nhất 10 chữ, phàn lớn là ngũ ngôn và thất ngôn.Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý 1. Mở bài - Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Trãi (những nét khái quát về cuộc đời, các tác phẩm chính,…). - Giới thiệu khái quát về bài thơ “Bài ca Côn Sơn” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…).2. Thân bài a. Cảnh vật Côn Sơn - Hình ảnh miêu tả thiên nhiên Côn Sơn: + Suối: tiếng suối như tiếng đàn cầm + Đá rêu phơi êm ái như ngồi trên chiếu + Thông mọc như nêm: thông mọc rậm và dày + Trúc bóng râm: trúc rậm, râm mát, dày tạo nên bóng râm khi trời nắng - Biện pháp nghệ thuật: + Cảnh vật được miêu tả bằng thủ pháp so sánh giàu sức gợi. + Bức tranh có sự kết hợp giữa âm thanh và màu sắc. + Hình ảnh được lựa chọn miêu tả: thông, trúc – loài cây tượng trưng cho Côn Sơn, biểu trưng của sự thanh cao ⇒ Gợi vẻ đẹp ngàn xưa, thanh cao, khóang đạt, yên tĩnh và nên thơ: Có âm thanh sống động hồn người, có sắc xanh bất tận bao la hùng vĩ của cây rừng Côn Sơn. Thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỉ của nhà thơ.b. Con người giữa cảnh vật thiên nhiên Côn Sơn - Sử dụng điệp từ, đại từ nhân xưng “ta” nhằm nhấn mạnh sự có mặt của “ta” ở mọi cảnh đẹp của Côn Sơn. - Sử dụng hàng loạt các động từ khẳng định tư thế làm chủ của con người trước thiên nhiên khoáng đạt: Ta nghe, ta ngồi, ta nằm, ta ngâm thơ nhàn… ⇒ Nhân vật trữ tình thả hồn mình, sống cuộc sống thanh cao, hòa mình vào giữa khung cảnh thiên nhiên Côn Sơn. - Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên: + Gắn bó, giao hoà nhưng con người không bị tan biến trước thiên nhiên khoáng đạt. + Nhân vật trữ tình tha thiết muốn hoà vào cảnh vật một cách chân tình, trọn vẹn. + Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. + Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm. + Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. + Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. ⇒ Thể hiện sức sống thanh cao, sự hoà hợp giữa con người với thiên nhiên tươi đẹp, trong lành đồng thời ca ngợi sức sống thanh cao, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.3. Kết bài - Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ: + Nội dung: vẻ đẹp hấp dẫn, nên thơ của thiên nhiên Côn Sơn và tâm hồn, nhân cách thanh cao, sống hòa hợp với thiên nhiên của Nguyễn Trãi. + Nghệ thuật: điệp từ, so sánh, giọng thơ nhẹ nhàng, êm đềm, bản dịch bằng thể thơ lục bát với ngôn ngữ trong sáng, sinh động,… - Sự giao hòa trọn vẹn giữa con người và thiên nhiên bắt nguồn từ nhân cách thanh cao, tâm hồn thi sĩ của chính Nguyễn Trãi.Bài mẫu Côn Sơn suối chảy rì rầm, “Quê cũ nhà ta thiếu của nào? Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ. “Côn Sơn ca” là bài ca giao cảm với th꧋iên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời. Phần đཧầu nói về vẻ đẹp lâm tuyền♍ của Côn Sơn bằng bốn cảnh: Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện: “Côn Sơn hữu tuyền, Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi ꧒nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để “Ta cho là đàn cầm”, để “Ta cho là đệm chiếu”, để “Ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, để “Ta ngâm nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc găn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm: “Trong ghềnh thông mọc như nêm, Gắn bó, chan hoà với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ🦄 tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chụ🔥c năm trời loạn lạc, ly hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê nhớ luống cúc vườn cũ: “Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc, 🅺 Quê cũ với tùng, với đá, với mai… b𝓡iết bao thương nhớ bồi hồi: “Thạch bạn tùng phong có thắng tưởng Giọng thơ trầm hẳn xuống: Nguyễn Trãi đang vui thú s๊a🐻y sưa lắng nghe tiếng suối róc rách, đang say mê ngắm nhìn rêu đá, thông rủ bóng, trúc xanh mát, rồi trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhở mình: “Về đi sao chẳng sớm toan Câu thơ chữ Hán nghĩa là: Hỡi người sao không về đi, nửa đời người giam buộc mình mãi trong cát bụi làm chi? Bốn chữ “Bất quy khứ lai” lấy cảm hứng từ bài “Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm một danh sĩ cao khiết đời Tấn bên Trung Quốc đã coi thường danh lợi không chịu khom lưng uốn gối vì mấy đấu gạo lương bổng, đã treo ấ💧n từ quan, trở về vườn cũ, cày ruộng, ương cúc, thảnh thơi với tháng ngày. Nguyễn Trãi làm quan, tài năng không được thi thố, bị bọn quyền thần, nịnh thần chèn ép. Có lúc ông tự than: “Dưới công danh đeo khổ nhục” (“Ngôn chí” -2), hoặc: “Được thua phú quý dầu thiên mệnh – Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn” (“Mạn thuật”-5). Người anh hùng thuở “Bình Ngô” đã từng “Viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” thế mà giờ đây tự trách mình “Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”, điều đó cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng đầy bi kịch. Đó là tâm trạng thời thế. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã sát hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, hai đại công thần; còn Nguyễn Trãi cũng đã bị hạ ngục. Sau đó tuy được tha nhưng chỉ là một cô thần “thanh chức”. Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống trong tâm trạng muốn trở về Côn Sơn làm bạn với cỏ hoa chốn lâm tuyền: “Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế, Nguyễn Trãi có lúc tự dặn mình: “Vườn quỳnh dù có chim hót – Cõi trần có trúc đứng ngăn”. Nhưng trước áp lực của bọn nịnh thần, ông phải lui về Côn Sơn. Mấy năm sau Lê Thái Tôn lại xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra làm quan. Trong biểu tạ ân, ông hả hê nói: “Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà 💝sợ trong lòng”; ông tự cho mình là con ngựa già “còn kham rong ruổi”. là cây thô🌌ng qua năm rét mà “còn dạn tuyết sương”. Chẳng bao lâu sau đó, Nguyễn Trãi đã về hẳn Côn Sơn… Cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm trạng đầy bi kịch giằng xé, đúng như ông đã viết trong “Côn Sơn ca”: ”Về đi sao chẳng sớm toan, Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm qu꧙á…” (Phạm Văn Đồng), và đó là ng🃏uồn gốc sâu xa bi kịch vô cùng đau thương của người anh hùng thuở “bình Ngô”. “Côn Sơn ca” còn hàm chứa triết lý về cuộc đời của Ức Trai. Trước hết ông nói về giàu sang phú quý, bần tiện, vinh và nhục ở đời. Đổꩵng Trác đời Đông Hán, Nguyên Tải đời Đường chức trọng quyền cao, phú quý đến cực 🎃độ, cuối cùng chết trong ô nhục, để lại tiếng dơ muôn đời: “Muôn chung chín vạc làm gì, Tác gi🔯ả nhắc lại cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề đời♈ Ân, Chu, từ đó suy ngẫm về “hiền ngu” ở đời, chung qui chỉ là “đều làm cho thoả được như ý mình”. Kiếp người khác nào “cây cỏ”, đời người một trăm n🌳ăm, mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến, tốt tươi rồi khô héo, tuần hoàn nối tiếp nhau trong vòng một trăm năm hữu hạn. Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, ♈chỉ còn biết làm bạn với mấy núi, trăng ngàn: “Láng giềng một áng mây bạc, Ý nghĩa cuộc đời là gì? Nguyễn Trãi mang màu sắc bi quan chưa hẳn đã sai? Đời người “Trăm năm c😼òn có gì đâu? – Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”(“Cung oán ngâm k൩húc”). Với Nguyễn Trãi lúc này thì chết là hết. Sự phủ định đầy ngao ngán: “Núi gò đài các đó đây Hai câu kết như một 💃lời thiết tha nhắn gọi: “Sao, Do bằng có tái sinh, Sao Phủ và Hứa Do hai cao sĩ đời vua Nghiêu trong lịch sử truyền kỳ Trung Quốc không màng công danh, chỉ thích sống cuộc đời ẩn sĩ, coi trọng thanh cao, chan hoà với núi cao rừng thẳm. Nguyễn Trãi một mặt cảm thông, kính trọng tấm gương sáng của hai Người Hiền xa xưa, mặt khác tự hào biểu lộ niềm tự hào về tâm thế của mình: trở về Côn Sơn là để thoát vòng danh lợi, được chan hòa với suối rừng thiên nhiên, sống cuộc đời nhàn hạ, thanh cao. Đó là âm điệu trữ tình, là nội dung tư tưởng tình cảm của “Khúc hát bên ghền👍h Côn Sơn” vậy. Nếu Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo…là khúc ca thắng trận của người anh hùng thì thơ Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập là tấm lòng, là tâm thế của Ức Trai. “Côn Sơn ca” là bài hát về suối, đá, thông, trúc, là tình yêu quê hương, là những suy ngẫm buồn lo về cuộc đời, về kiếp ngươi hữu hạn trong dòng chảy vô hạn của thời gian. Cảnh sắc thiên nhiên Côn Sơn đã trở thành tâm hồn của Ức Trai. Triết lý 📖về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca thật ra không có gì mới. “Thân cát bụi lại trở về cát bụi” (Kinh Thánh) “Sinh tồn hoa ốc xứ – Linh lạc qui sơn khưu (Sống ở nhà lộng lẫy, chết lại về núi gò – Tào Thực, đời Hán). “Xử thế nhược đại mộng- Hồ vị lao kỳ sinh?”(Sống ở đời như giấc mộng lớn – Tội chi vất vả đời mình – Lý Bạch … có điều, qua “Côn sơn ca”, ta thấy hồn thơ của Ức Trai rất đẹp. Nguyễn Trãi tự hào cuộc đời mình thanh cao, thương cuộc đời mình đầy bi kị𝓰ch thương đời người cát bụi. Chất triết lý “Côn Sơn ca” giàu tính nhân văn để lại dấu ấn đậm đà trong lòng ta… ufa999.cc
Quảng cáo
Tham Gia Group Dành Cho Lớp 7 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí |