Đọc hiểu Giải đi sớmI - Gợi dẫn 1. Bài thơ Tảo giải thể hiện khí phách hiên ngang của người cộng sản Hồ Chí Minh. Trong lúc tăm tối nhất của cuộc sống tù đày, Người vẫn lạc quan tin tưởng, vẫn hướng đến một ban mai tươi sáng, nơi có đầy hơi ấm và chứa chan ánh sáng.Quảng cáo
Đề bài Đọc hiểu Giải đi sớm Lời giải chi tiết I - Gợi dẫn 1. Bài thơ Tảo giải thể hiện khí phách hiên ngang của người cộng sản Hồ Chí Minh. Trong lúc tăm tối nhất của cuộc sống tù đày, Người vẫn lạc quan tin tưởng, vẫn hướng đến một ban ma𝔉i tươi sáng, nơi có đầy hơi ấm và chứa chan ánh sáng. Tảo giải là hai bài thơ thể hiện sự vận độn💟g của thời gian và sự đổi thay của cảnh vật, từ đêm tối đầy trăng sao nhưng lạnh lẽo đến ban mai ấm áp và tươi sáng. - Bài 1: Miêu tả khung cảnh buổi sáng sớm, khi người tù bị chuyển lao. Thái độ của người đi xa hiên ngang kiên cường, sẵn sàng đối diện với mọi vất vả, mọi hiểm nguy. Thể hiện khí phách của người cách mạng trước ngục tù, đoạ đầy.- Bài 2: Không gian và thời gian đều có sự thay đổi, đó là kết quả của quá trình vận động, thể hiện niềm tin tưởng cách mạng của người tù. Người cộng sản đã vượt lên mọi khó khăn và tin tưởng vào tương lai tươi sáng. “Chinh nhân” đã trở thành “thi nhân”. Con người làm chủ hoàn cảnh của mình.2. Bản dịch thơ có một số chỗ chưa sát với nguyên văn, một số từ chưa được dịch đủ nghĩa, tập trung ở ba câu cuối của bài 1("thượng thu san", "chinh nhân", "nghênh diện"). Bản dịch chưa thể hiện được khí phá⛦ch chủ động hiên ngang đối diện với mọi khó khăn của người tù cộng sản. 3. Đọc kỹ cả pꦉhần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ. Câu cuối mỗi bài đọc chậm và nhấn giọng, làm nổi bật hai sắc thái tâm trạng của chủ thể trữ tình trong bài thơ. II - Kiến thức cơ bản Bài thơ Giải đi sớm có kết cấu hai phần ghi lại hình ảnh người tù trên con đường chuyển lao, đồng thời bộc lộ tư thế, khí phách, bản lĩnh của người tù cách mạng, khẳng định một tinh thần “thép”, khẳng định tư thế chiến đấu của người tù cách mạng trong mọi hoàn cảnh gian khổ, ở đây không chỉ là hình ảnh con người chấp nhận hoàn cảnh mà còn muốn vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh. Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh – một hồn thơ p🔜hóng khoáng, bay bổng, một tư thế có sự 💮vận động. Hai câu thơ đầu mở ra khung cảnh thiên nhiên trên con đường chuyển lao trong một khoảng không gian, thời gian cụ thể:(Người đi cất bước trên đường thẳm, Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn) Bản dịch thơ không dịch được chữ "chinh" trong "chinh nhân", không làm nổi bật hình ảnh người đi xa trên con đường xa “chinh đồ thượng”. Câu thơ nhấn mạnh sự đơn độc gian khó, nỗi nhọc nhằn vất vả của người tù trên con đường chuyển lao. Dịch thơ là “Người đi cất bước trên đường thẳm” gợi ra dáng vẻ thư thái, thanh nhàn, một vẻ lãng mạn mang dáng dấp của người chinh phu ngày trước. Lời dịch thơ có vẻ hay nhưng chưa bám sát văn bản. Chữ "nghênh" trong "nghênh diện" được dịch là “rát mặt” mới chỉ nhấn mạnh được cái gian khó mà chưa thấy được sự đối diện, đương đầu chấp nhận và cả sự thách thức gian khó. Người tù không chỉ chấp nhận gian khó mà còn có ý thức để chiến thắng gian khó. Ba chữ "trận trận hàn" chỉ những trận gió lạnh liên tiếp xối xả khác với "trận gió hàn" – chỉ số ít. Câu thơ nhấn mạnh sự khắc nghiệt của hiện thực mà người tù phải trải qua, cuộc sống tù ngục đầy gian khổ thử thách đòi hỏi một ý chí, bản lĩnh, một nghị lực phi thường của con người để có thể vượt qua, chiến thắng gian khổ ấy.Sự vật vần xoay đà định sẵn Hết mưa là nắng hửng lên thôi Như vậy, tứ thơ có sự chuyển đổi, vận động của thời gian, không gian cũng là một quy luật tuần hoàn của tạo hoá. Nhưng kỳ diệu chính ở chỗ: Người mượn quy luật ấy để gửi gắm niềm tin tưởng, sự vươn lên và bày tỏ khát vọng của chính con người, âu cũng là “Hết khổ là vui vốn lẽ đời”. Nếu phần I xuất hiện hình ảnh “chinh nhân” thì phần II xuất hiện “hành nhân”, bản dịch thơ đều dịch là “người đi” chưa nêu bật được sắc thái biểu cảm của lời thơ. Nếu chữ "chinh nhân" làm nổi bật gian khó, vất vả thì "hành nhân" làm bật lên cảm giác thư thái, tĩnh tại. Nếu "chinh nhân" làm bật lên khí phách anh hùng thì "hành nhân" ngời sáng tư chất một nghệ sĩ, một con người mở rộng lòng mình đón nhận cảnh vật thiên nhiên, đang dạo bước thưởng ngoạn thiên nhiên. Đặt trong thân phận “tù nhân”, người ta mới nhận ra ý chí, nghị lực, tâm hồn vĩ đại của Bác:III - Liên hệ 1. Cũng với tinh thần lạc quan, trong bài thơ Trên đường (trích Nhật kí trong tù), tác giả viết: Mặc dù bị trói chân tay, Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng; Vui say ai cấm ta đừng, Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu.(Nam Trân dịch) 2. Thể hiện những cảm nhận tinh tế và sâu sắc của mình khi đọc Nhật kí trong tù, nhà thơ Hoàng Trung Thông viết trong bài Đọc thơ Bác: Ngục tối, trái tim càng cháy lửa Xích xiềng không khoá được lời ca Trăm sông nghìn núi chân không ngã Yêu nước yêu người yêu cỏ hoa Đọc lời thơ Bác tâm hồn Bác Một tấm gương trong chẳng bụi mờ Bóng cây đại thụ trùm xanh mát Cánh rộng chim bằng bay tự do Tự do! Gươm súng nào ngăn được Biển rộng sông dài ý chí cao Thân ở trong tù, lòng ở Nước Bay quanh hồn mộng ánh vàng sao Khi nắng chim rừng ca rộn núi Khi nhìn khóm chuối ánh trăng soi Lao lung vẫn giữ lòng thư thái Nắm chắc trong tay cả cuộc đời Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp Ánh đèn toả rạng mái đầu xanh Vần thơ của Bác vần thơ thép Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.ufa999.cc
Quảng cáo
Tham Gia Group Dành Cho Lớp 11 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí |